10.9.21

Minh bạch, từ thiện, và đất nước



Năm năm trước, tôi là một trong những người đầu tiên kêu gọi các hoạt động quyên góp tiền của bá tánh cho các hoạt động thiện nguyện cần phải minh bạch. Tại sao? Tại vì tiền đó không phải là tiền của người đứng ra tổ chức quyên góp, mà đó là tiền của rất nhiều người khác nhau để giúp cho rất nhiều người nghèo túng khác. Đó là tiền của cộng đồng. Và việc thiện nguyện là một hoạt động cộng đồng, nó không còn là chuyện riêng tư nữa. Trong chuyện riêng tư bạn có thể móc túi ra và tặng người khác bao nhiêu, hứa gì, nói gì, không ai ý kiến bạn cả. Nhưng chuyện của cộng đồng thì cho dù cộng đồng chưa có luật chính thức vẫn còn đó những luật bất thành văn thuộc về văn hoá cư xử của cộng đồng, đó là không được mượn danh thiện nguyện để ăn bớt, ăn xén. Mà để tránh được chuyện này, để khỏi bị nghi ngờ làm chuyện này, thì cách tốt nhất là công khai, minh bạch rõ ràng chuyện thu chi. Muốn chứng minh thu bao nhiêu thì sao kê ngân hàng. Còn muốn chứng minh chi thì có hoá đơn. Còn cái nào không chứng minh được thì có lời giải thích. Chỉ có khi chúng ta làm quen với văn hoá minh bạch trong xã hội thì sau đó xã hội mới tiến tới đòi minh bạch các khoản đóng góp, thu chi của chính phủ. Văn hoá trong sạch sau đó sẽ trở thành một văn hoá chung của Việt Nam, trong và ngoài chính quyền. Một văn hoá như vậy không những giúp Việt Nam mau chóng phát triển mà còn khiến thế giới phải ngưỡng mộ. Vì vậy mà phải xiển dương văn hoá đòi minh bạch.


Dưới đây là 3 bài viết của tôi 5 năm trước. Gộp lại đây cho dễ đọc. 


——


Về văn hóa minh bạch tiền bạc của người Việt


Có một điểm dở trong văn hóa của người Việt đó là sự khó nói về tiền bạc trong các mối quan hệ. Một mối quan hệ mà dính đến tiền trước sau gì cũng dễ xích mích. Người Việt mình xem việc cho, nhận, chi tiền nhiều khi là một cái gì đó thuộc về tình cảm chứ không giống như nhiều người ở các xứ tiến bộ xem tiền như một vật trao đổi thuần túy trong hợp đồng giữa người với người.


Khi ra ngoài ăn uống, lúc chi trả hóa đơn, người mình khá lúng túng. Người thì dành trả vì thể diện, người thì ngại được trả cũng vì thể diện. Khi cho mượn tiền, người cho mượn không dám đòi vì sợ mất bạn, phần vì sợ người mượn bảo có nhiêu đó mà đòi, thằng này keo kiệt, bủn xỉn. Thành ra nhiều khi người cho mượn ráng nhịn. Còn về phần người mượn thì nhiều khi vì công việc bận quá mà quên, mà cũng có khi không có đủ tiền để trả nên cũng thành ra khó ăn khó nói nên lẳng lặng im luôn, có khi tránh mặt. Thành ra vậy mà mất đi mối quan hệ tốt đẹp. Vì chỉ khi mối quan hệ tốt đẹp tin nhau thì người ta mới cho mình mượn tiền.


Ở một khía cạnh khác, có khi người ta nhờ gửi tiền để mua cái gì đó hay chi chỗ nào đó, xong người gửi không dám hỏi. Vì nghĩ có bao nhiêu tiền đâu mà hỏi, mà nếu hỏi thì bị đánh giá là nhỏ mọn, nên im.


Nhiều lần tôi gặp nhiều người bạn, họ trách đất nước có nhiều cái tệ quá, xong khi nói đến tham nhũng họ bảo phải chi mấy ổng ăn mà mấy ổng làm được cũng đỡ, đằng này mấy ổng ăn không mà không làm.


Họ không phải là những người nghiên cứu kinh tế - chính trị hay xã hội nên không biết rằng khó có một nước nào trên thế giới mà phát triển được nếu bị tham nhũng hoành hành.


Nhiều người suy nghĩ như vậy lắm.


Nói vậy chỉ để nói lên một tâm lý rằng người Việt mình rất xuề xòa trong các minh bạch và tách bạch giữa tiền bạc và tình cảm. Và khi mình xuề xòa như vậy thành ra mọi người trong xã hội hình thành một cái nếp là rất xuề xòa về tiền bạc, thu chi, vay mượn, sao cũng được.


Đó là một văn hóa chúng ta cần dần dần thay đổi nếu chúng ta muốn trở nên là một xã hội công bằng, văn minh và giàu tình cảm hơn. Tại sao phải là công bằng? Trong ví dụ trên, khi mà mọi người cùng đi ăn thì về mặt công bằng họ phải có trách nhiệm trả khoản tiền mình ăn, trừ khi là bạn bè hay người thân mời khi có dịp. Tại sao văn minh? Như ví dụ ở trên khi mình mượn tiền thì mình có trách nhiệm trả tiền và người cho mượn có quyền hỏi. Chúng ta nên coi điều đó như một hành động bình thường nằm ngoài tình cảm. Tại sao lại giàu tình cảm hơn? Vì khi cả hai hiểu nhau rằng vay mượn phải trả hợp lý hoặc gửi tiền thì có quyền hỏi và người nhận nên trả lời thì không ai phải giận ai, tình bạn sẽ hiểu nhau hơn.


Những điều đó cần hình thành nên một văn hóa, văn hóa cư xử trong các giao dịch về tiền bạc. Chúng ta hiện nay chưa có văn hóa đó và chúng ta cần phải ý thức và xây dựng.


Muốn có được một văn hóa cư xử trong các giao dịch về tiền bạc thì điều đầu tiên là mọi người cần làm quen với văn hóa minh bạch trong giao dịch tiền bạc. Đó cũng là lý do mà người viết bài này cổ vũ cho sự minh bạch trong thu chi của các hoạt động thiện nguyện.


Chúng ta và xã hội sẽ nhận được nhiều ích lợi từ các hành động minh bạch này.


Thứ nhất, việc đòi hỏi minh bạch trong từ thiện chính nó sẽ tạo một tiền lệ trong các hoạt động xã hội từ rày về sau rằng những cá nhân và tổ chức quyên góp tiền cho các hoạt động xã hội cần phải có trách nhiệm minh bạch số tiền thu chi hoặc đúng với cam kết ban đầu của mình. Nếu để ý bạn sẽ thấy một điều rằng các hội nhóm thiện nguyện khác đã bắt đầu công bố các con số thu chi. Đó là một tín hiệu tốt. Dần dần mọi người sẽ quen với việc minh bạch thu chi trong các hoạt động xã hội.


Thứ hai, nó cũng tạo một tiền lệ rằng những người gửi tiền cho các hoạt động xã hội và cộng đồng có quyền giám sát và đòi hỏi người nhận tiền thực hiện đúng như cam kết ban đầu.


Thứ ba, khi môi trường trở nên minh bạch và rõ ràng, nó sẽ khiến cho những người lương thiện và tử tế khi thực thi các hoạt động xã hội được tôn vinh và coi trọng một cách xứng đáng, chứ không còn bị nghi ngờ này nọ.


Thứ tư, thiện nguyện là một điều tốt và những người làm điều tốt, vì trách nhiệm cộng đồng, xã hội đều đáng được tôn vinh. Không phải ở bất cứ lĩnh vực nào chính phủ cũng có thể can thiệp được, và ở những điểm mà chính quyền khó với tới hoặc thực hiện không hiệu quả, cần có sự can thiệp của các hội đoàn dân sự. Bất cứ một hoạt động thiện nguyện hay hoạt động xã hội nào cũng cần tài chính, không thể làm gì được nếu không có tiền. Và khi mà các hoạt động xã hội được mọi người tin tưởng tuyệt đối, quyên góp tài chính hỗ trợ mạnh mẽ, thì đất nước mới có cơ hội phát triển.


Thứ năm, việc các tổ chức và cá nhân quyên góp tiền nhanh chóng minh bạch hóa và ghi nhận các khoản đóng góp của các nhà hảo tâm ở đó còn thể hiện một văn hóa khiêm nhường trong việc trân trọng tiền bạc và tình cảm chia sẻ của những người đóng góp. Về lâu về dài, điều này giúp tạo nên một tiền lệ tốt và giúp hình thành nên một văn hóa tốt trong xã hội của Việt Nam – một văn hóa khiêm nhường và quý trọng tiền bạc, tình cảm của những người chia sẻ tấm lòng. Ở các công trình công cộng ở Mỹ như công viên, bảo tàng, nhà quản lý luôn để những tấm bảng bé bé đề tên người hiến tặng. Điều đó thể hiện một văn hóa khiêm nhường và trân trọng người hiến tặng thiện nguyện.


Thứ sáu, việc minh bạch chính nó sẽ giúp hình thành nên một văn hóa lương thiện và giúp xây dựng niềm tin trong xã hội Việt Nam nơi niềm tin giữa người và người của chúng ta đang ngày càng bị mai một, khi không ai tin ai trong xã hội. Người dân không tin lẫn nhau, chính quyền không tin người dân, và người dân không tin cả chính quyền.


Thứ bảy, khi mà người dân chúng ta đòi hỏi được một sự minh bạch trong các hoạt động xã hội dân sự của mình và từ từ xây dựng nên một văn hóa minh bạch trong việc đưa và nhận tiền thì đó là bước đầu tiên để chúng ta xây dựng nên một văn hóa minh bạch trong các giao dịch tiền bạc ở cấp xã hội. Đó là nấc thang đầu tiên trước khi chúng ta có thể tiến tới đòi hỏi một sự minh bạch hơn trong chi tiêu của chính quyền. Người dân không những có quyền đòi hỏi từng đồng tiền quyên góp của mình dùng vào việc gì cho thiện nguyện, mà việc này còn giúp đặt một tiền lệ để sau này mọi người có quyền đòi hỏi từng đồng tiền thuế của mình được tiêu xài ra sao.


Khi một đất nước ngày càng minh bạch và lương thiện, từ xã hội đến chính quyền, người ta đưa và nhận, tin tưởng và minh bạch từng đồng tiền, một cách cẩn trọng và khiêm nhường trong hành động thì đó sẽ là một vốn quý về văn hóa của đất nước đó.


Khi đó người hoạt động xã hội quyên góp tiền được tin yêu, quan chức chính phủ được tin tưởng, người và người cho, nhận, và mượn trong sự minh bạch và tôn trọng. Đó thật sự là một xã hội văn minh.


Vì vậy đó là trách nhiệm của mọi người trong góp tay để làm minh bạch hóa những nghi vấn trong các hoạt động nhận và chi tài chính của các tổ chức xã hội, và ở đây bắt đầu từ các dự án từ thiện, từ nay trở về sau.


Nguyễn Huy Vũ

OL, 9.12.2016


*****


Văn hóa minh bạch và quyền tiếp cận thông tin


Với các bạn ở các nước dân chủ đủ lâu và có cơ hội làm việc liên quan đến các cơ quan tổ chức chính phủ lẫn xã hội, mọi người sẽ cảm nhận một điều rằng sự minh bạch và quyền tiếp cận thông tin luôn được đề cao.


Sự minh bạch chính nó đã trở thành một văn hóa phổ biến trong xã hội. Khi bạn điền đơn nộp hồ sơ xin việc, họ sẽ có mục hỏi bạn có bà con thân thích làm việc trong cơ quan không. Còn khi bạn nhận được một quyết định mà bạn cảm thấy không công bằng từ phía chính phủ hay bất cứ cơ quan nào đó, bạn có quyền khiếu nại và họ buộc phải trả lời cho bạn theo quy định hẳn hoi. Bạn đi khám bệnh nếu thấy hóa đơn có nhiều thắc mắc, bạn có quyền gửi đơn cho bệnh viện và họ có trách nhiệm trả lời chi tiết về số tiền họ tính cho bạn. Bạn đi siêu thị mua món đồ, món đồ về nhà kiểm tra bạn thấy nó hư hoặc không như ý của bạn, bạn có quyền đem món hàng nguyên vẹn đó trả lại siêu thị trong một khoảng thời gian nhất định và họ trả lại toàn bộ tiền cho bạn. Và nếu bạn theo dõi chính trị Mỹ thì mới đây, trong cuộc bầu cử Mỹ, khi phe Dân chủ nghi ngờ kết quả kiểm phiếu, họ có thể đóng tiền và chính quyền buộc phải mở kiểm phiếu lại.


Những ví dụ trên là những ví dụ về minh bạch. Nó hiện diện ở khắp mọi nơi trong xã hội, từ mua bán, làm việc, đến hoạt động chính quyền.


Với người ở xứ văn minh, đó như là điều hiển nhiên. Hiển nhiên đến mức nhiều người Việt mình ở các xứ tiến bộ trải nghiệm nó mà không hiểu nó là một sự minh bạch trong xã hội.


Nhưng sự minh bạch đó có lẽ là điều còn mới lạ ở Việt Nam, chúng ta chưa có một văn hóa đó. 


Minh bạch là một văn hóa dựng nên nhờ những quyền của con người: đó là quyền tiếp cận thông tin và quyền được đối xử công bằng. Với bất cứ những thông tin nào trong giao dịch, cá nhân trong xã hội có quyền tiếp cận thông tin và với bất cứ vụ việc nào họ cũng cần được đối xử công bằng. Có như vậy xã hội mới tiến bộ và văn minh.


Cả hai quyền tiếp cận thông tin và quyền được đối xử công bằng đều bị xâm phạm rất nghiêm trọng ở Việt Nam hiện nay. Đáng buồn là các hoạt động cổ vũ cho hai quyền này không được xiển dương rộng rãi ở Việt Nam hiện nay.


Chỉ khi cả hai quyền này được thực thi mạnh mẽ hơn thì các vấn nạn xã hội và đất nước mới dần giảm bớt. Về mặt xã hội, nó giúp giảm đi các hành vi ăn chặn tiền quyên góp, tham nhũng, lạm quyền, mua quan bán chức, cất nhắc người thân. Nó giúp hình thành văn hóa kinh doanh lương thiện, quảng cáo sản phẩm đúng thông tin. Nó giúp việc hình thành các hợp đồng rõ ràng, minh bạch. Nó giúp người dân hiểu quyền của mình và tiếp cận được thông tin khi quan hệ với các cơ quan chính quyền. Về mặt chính trị, nó là một văn hóa giúp kiến tạo nên một chính phủ dân chủ vì một chính phủ dân chủ phải xuất phát từ một cuộc bầu cử minh bạch. 


Vì tất cả các lợi ích của minh bạch đó mà người Việt cần hiểu và tự giành các quyền của mình, trong đó có quyền tiếp cận thông tin và quyền được đối xử công bằng, để tự dựng xây nên một nước Việt minh bạch, lương thiện, và văn minh. Đó là trách nhiệm của mỗi người trong việc hình thành nên một văn hóa chứ không ai khác. 


Nguyễn Huy Vũ

OL, 15.12.2016


*****


Minh bạch xã hội và vai trò của các đối trọng


Quan sát sự phát triển của các nền dân chủ nhiều người sẽ nghiệm ra một điều rằng thành tố quan trọng đóng góp vào sự ổn vững đó là vai trò của các đối trọng chính trị hay đối lập chính trị. Trong một hệ thống chính trị nơi mà đối lập yếu sẽ dẫn đến sự độc tài và chuyên quyền. Quyền lực cần được kiểm soát và khi mà quyền lực bị kiểm soát lỏng lẻo thì ở đó sự lạm quyền sẽ diễn ra.


Nhiều bạn ở Việt Nam theo dõi các cuộc tranh luận gay gắt được truyền thông mổ xẻ trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sẽ thấy được vai trò của sự cân bằng và kiểm soát chính trị. Đảng này kiểm soát đảng kia, và có như vậy thì đảng cầm quyền phải ráng làm tốt. Một quyết sách của đảng cầm quyền đưa ra đều bị đảng đối lập đem ra mổ xẻ, phê bình, có như vậy xã hội mới biết điều gì đang xảy ra ở đất nước mình, có lợi hay có hại. Nhờ những hoạt động của đối lập mà nền chính trị được minh bạch dần.


Không một ai thích mình bị minh bạch hóa ra cho thiên hạ xem, nhất là những cái xấu của mình thì càng phải giấu. Nhưng trong chính trị, các quyết sách sai ảnh hưởng đến hàng triệu con người và đôi khi thậm chí quyết định sự sống còn của đất nước, vì vậy mà nó cần được minh bạch cho toàn dân được biết. Vai trò của đối trọng là ở chỗ đó. Nếu không có đối trọng thì sẽ không bao giờ có minh bạch. Vì vậy mà muốn có minh bạch thì phải có đối trọng.


Đó là chuyện chính trị. Ở khía cạnh xã hội, các hoạt động của các tổ chức và cá nhân chắc chắn sẽ có những điều gây phương hại đến sự an toàn của các cá nhân, sự tàn phá môi trường, hay những tác động có hại khác cho đất nước.


Để kiểm soát những điều này, chúng ta có ba cách.


Cách đầu tiên là tăng cường lực lượng công an cả về số lượng và chất lượng. Nhưng khi lực lượng công an quá đông thì không những nhà nước phải tốn một ngân sách lớn, tốn kém, để chi trả mà bên cạnh đó còn thiệt mất một lực lượng sản xuất đáng kể khi đáng lẽ ra những viên công an này có thể được đào tạo thành những doanh nhân, kỹ sư, bác sỹ,.., đó là những công việc tạo ra nhiều giá trị hơn cho xã hội.


Cách thứ hai là gia tăng mức trừng phạt đối với các sai phạm. Tuy vậy, khi mức độ trừng phạt gia tăng đến một mức nào đó thì sự trừng phạt biến đất nước trở thành một nơi khắc nghiệt – nơi mà sự nhân văn không còn nữa.


Cách thứ ba đó là khuyến khích sự xuất hiện của các tổ chức xã hội dân sự. Các tổ chức này sẽ là các đối trọng xã hội giúp thúc đẩy một xã hội minh bạch và tiến bộ. Mỗi tổ chức sẽ có một mục tiêu và tất cả có cùng một sứ mệnh đó là đứng về phía quyền lợi của người dân và đất nước để điều tra, lên án, và kéo cơ quan công quyền vào cuộc nếu thấy những sai phạm từ các cá nhân hay tổ chức ảnh hưởng đến quyền lợi của nhân dân và đất nước.


Sự hiện diện của các tổ chức xã hội mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, các tổ chức xã hội dân sự trước hết đóng vai trò là tiếng nói của người dân đối với các vấn đề thiết thực liên quan đến chính mình trong xã hội.


Thứ hai, sự hiện diện của các tổ chức xã hội dân sự giúp cho một xã hội được kiểm soát lẫn nhau, mọi thứ dần minh bạch hơn, hạn chế những hành động có hại cộng đồng của bất cứ tổ chức hay cá nhân nào.


Thứ ba, tổ chức xã hội được tổ chức bởi người dân do đó nó giúp kết nối người dân với đất nước, khiến họ có trách nhiệm với xã hội mình đang sống và tập cho họ quen dần với sự phản biện của mình.


Thứ tư, môi trường hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự cũng sẽ giúp đào tạo nên những cá nhân có kinh nghiệm tổ chức hoạt động vì lợi ích cộng đồng. Những cá nhân này sẽ là những hạt giống lãnh đạo sau này trong nhiều tổ chức khác nhau từ kinh doanh đến chính trị.


Và cuối cùng, nếu so với hai phương cách trên – gia tăng sự hiện diện của công an hay gia tăng hình phạt – thì phương cách tăng cường sự hiện diện của các tổ chức xã hội dân sự không những giúp cho nền dân chủ được sống động mà nó còn giúp cho sự tự do của xã hội được khởi sắc, vì tiếp xúc với những cá nhân dân sự tự tổ chức các hoạt động của mình lúc nào cũng dễ dàng và thoải mái hơn là tiếp xúc với các viên công an hay nhân viên công quyền.


Vì những ích lợi của các tổ chức xã hội dân sự như vậy nên ở các nước dân chủ phát triển, họ rất chú trọng đến việc duy trì và phát triển các tổ chức này. Các tổ chức như vậy được nhận tài trợ hàng năm dựa vào thành tích mình thực hiện. Thường họ nhận tiền trực tiếp từ các tổ chức chính phủ hoặc từ các nhà hảo tâm. Một số chính phủ thường có chính sách giảm thuế cho các cá nhân hay tổ chức đóng góp tiền cho các tổ chức như vậy dựa vào tỉ lệ đóng góp.


Một nước Việt Nam văn minh trong tương lai cũng nên hỗ trợ sự hình thành các tổ chức dân sự xã hội như vậy. Các tổ chức xã hội dân sự sẽ đóng vai trò là những đối trọng xã hội, kiểm soát sự sai phạm trong hành động của các cá nhân hay tổ chức làm phương hại đến lợi ích của nhân dân và tổ quốc từ gây ô nhiễm môi sinh đến sự an toàn của thực phẩm. Và khi mà sự sai phạm được đưa ra thì các đối trọng chính trị đến lượt nó áp lực chính phủ cầm quyền phải thực hiện nghiêm phát luật để bảo vệ lợi ích của quốc gia. Sự phát triển của một quốc gia do đó có một công lớn ở sự phản biện của các đối trọng xã hội.


Nguyễn Huy Vũ

OL, 22.12.2016