Giải Nobel Kinh tế năm nay được trao tặng cho Joel Mokyr, Philippe Aghion, và Peter Howitt cho những nghiên cứu nhằm giải đáp cách sáng tạo đã thúc đẩy tăng trưởng lâu dài cho nền kinh tế.
Joel Mokyr được nửa giải. Nửa giải còn lại được chia cho Philippe Aghion và Peter Howitt.
Uỷ ban Nobel khen tặng Joel Mokyr vì những đóng góp của ông nhằm giải thích những điều kiện nền tảng giúp cho sự tăng trưởng bền vững dựa vào tiến bộ công nghệ. Mokyr đã giải thích một cách hệ thống điều mà những nhà quan sát chính trị ai cũng thấy, đó là sự tăng trưởng dựa vào công nghệ đứng trên hai điều kiện chính đó là văn hoá và thể chế — văn hoá sáng tạo và thể chế nuôi dưỡng sự sáng tạo đó.
Công nghệ có thể nảy sinh một cách tình cờ ở một vùng, nhưng để nó có thể lớn mạnh và phát triển đến mức đem lại nhiều công việc tốt và sự thịnh vượng của quốc gia thì nó cần một văn hoá sáng tạo của người dân ở vùng đó và cả những thể chế để hỗ trợ cho sự sáng tạo đó.
Vậy văn hoá sáng tạo ở đây là gì? Đó là văn hoá tò mò mang tính tri thức và sự cởi mở đối với các tư tưởng mới. Cả hai điều này chỉ có thể phát triển ở những xã hội tự do. Không phải tình cờ mà văn hoá này lớn mạnh ở châu Âu kể từ đầu thế kỷ 16, cùng với phong trào Khai sáng — phong trào xiển dương các giá trị tự do và thiết lập các thể chế nền tảng cho các chế độ dân chủ ngày nay.
Còn thể chế? Những thể chế hỗ trợ cho sự phát triển công nghệ có thể kể đến như quyền sở hữu tài sản, hệ thống bản quyền, và thị trường mở. Hay nói một cách ngắn gọn đó là quyền tư hữu — sự công nhận sở hữu cá nhân và cho phép cá nhân tự do mua bán những thứ thuộc về mình một cách tự do. Lịch sử nhân loại đã chỉ ra một điều đơn giản rằng quyền sở hữu khuyến khích nỗ lực của người chủ sở hữu. Có những điều không mới, nhưng để nó thuyết phục được sự chấp nhận của số đông không phải dễ, vì nó gắn liền với quyền lợi của nhiều người. Người Việt đã quá quen với câu nói “cha chung không ai khóc” — một tổ chức mà người tham gia không cảm thấy mình “sở hữu” nó thì không ai chịu làm việc, một dự án mà không ai có quyền “sở hữu” nó thì nó sẽ không chạy.
Các công trình quan trọng phải kể đến của Mokyr gồm A Culture of Growth (Văn Hoá Của Tăng Trưởng), The Lever of Riches (Đòn Bẩy Của Sự Giàu Có), và The Gifts of Athena (Những Món Quà Của Athena) — trong thần thoại Hy Lạp, Athena là nữ thần của trí tuệ.
Philippe Aghion và Peter Howitt phát triển những nghiên cứu của mình về “phá huỷ sáng tạo” dựa trên những ý kiến của Joseph Schumpeter — người đặt nền tảng cho khái niệm phá huỷ sáng tạo (creative destruction). Trong cuốn sách Capitalism, Socialism and Democracy (Tư Bản Chủ Nghĩa, Xã Hội Chủ Nghĩa, và Dân Chủ) của mình, Schumpeter đã trình bày khái niệm phá huỷ sáng tạo như là một động lực của các nền kinh tế tư bản. Giới doanh nhân trong các xã hội tư bản giới thiệu những công nghệ mới, những sản phẩm mới, hay những mô hình kinh doanh mới, và những điều mới này, nếu thành công, sẽ phá huỷ và thay thế những ngành công nghiệp cũ, mang lại tiến bộ về kinh tế cho xã hội. Xe hơi thay thế xe ngựa là một ví dụ. Sáng tạo, chứ không chỉ cạnh tranh hay hiệu quả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế về lâu dài. Tuy vậy, sự phá huỷ sáng tạo này tạo ra sự mất ổn định khi những doanh nghiệp cũ phá sản và những công nhân của những ngành công nghiệp cũ bị mất việc. Sự xuất hiện của công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) trong thời đại ngày nay là một ví dụ khác. Các hoạ sỹ vẽ minh hoạ sẽ dần mất việc. Các lập trình viên cũng đang dần bị thay thế. Các giáo viên, bác sỹ, và nhiều nhân viên của các ngành khác cũng dần bị cho nghỉ việc, và một số ngành sẽ biết mất trong tương lai.
Nhưng không chỉ nói về sự phá huỷ sáng tạo trong xã hội tư bản, Schumpeter còn đặt góc nhìn của mình vào các chế độ xã hội chủ nghĩa — nơi mà chính quyền thông qua kế hoạch hoá tập trung kiểm soát toàn bộ nền kinh tế. Schumpeter đặt câu hỏi rằng liệu các chế độ xã hội chủ nghĩa có chạy được không như trong các xã hội tư bản. Schumpeter cuối cùng kết luận rằng về mặt lý thuyết thì các chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn có thể chạy được, theo nghĩa là nó có thể phân bổ nguồn lực một cách có lý trí. Tuy vậy, nó sẽ đối mặt với hai thách thức. Thách thức đầu tiên đó là tính hiệu quả. Nó không thể nào biết được một cách chính xác nhu cầu và năng lực cung cấp hàng hoá của xã hội. Vì vậy mà trong các chế độ xã hội chủ nghĩa, người ta có thể sản xuất thừa một số mặt hàng trong khi lại thiếu một số mặt hàng khác. Đó là vì không có tự do sản xuất và trao đổi nên cơ chế giá cả của hàng hoá không tồn tại như trong các chế độ tư bản. Với giá cả, người ta sẽ biết mặt hàng nào thiếu, thường đi kèm với giá cao, và họ tập trung vào sản xuất để kiếm lợi và thị trường sẽ đẩy giá nó xuống vì nguồn cung đã trở nên dồi dào. Giá cả hình thành do quy luật cung cầu của thị trường và được vận hành bởi sự tham gia của vô số cá nhân trong nền kinh tế thị trường — điều này hoàn toàn thiếu vắng trong các chế độ xã hội chủ nghĩa khi mà nhà nước là tác nhân duy nhất, đóng vai người bán lẫn người mua.
Thách thức thứ hai, theo Schumpeter, đối với các chế độ xã hội chủ nghĩa đó là thiếu tính sáng tạo. Trong các xã hội này, không tồn tại các động lực đến từ doanh nhân để tạo ra các phá huỷ sáng tạo như trong các chế độ tư bản — vì trong các chế độ xã hội chủ nghĩa, làm gì có doanh nghiệp tư nhân. Vì thiếu tính sáng tạo này mà chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ không vượt lên trên chế độ tư bản chủ nghĩa được — Schumpeter dự đoán như vậy.
Trở lại với các đóng góp của Philippe Aghion và Peter Howitt, hai kinh tế gia này đã thiết lập các mô hình kinh tế nội sinh dựa trên các ý tưởng của Schumpeter và đưa nó thành mô hình nền tảng để nghiên cứu về tác động của phá huỷ sáng tạo lên nền kinh tế. Công trình đầu tiên trình bày cái mà giới kinh tế hay gọi là Schumpeterian growth model (Mô hình tăng trưởng kinh tế Schumpeter) đăng trên tập san Econometrica với tên A Model of Growth Through Creative Destruction (Một Mô Hình Tăng Trưởng Nội Sinh Dựa Trên Phá Huỷ Sáng Tạo). Sau đó, các tác giả khai triển thêm để viết thành cuốn sách Endogenous Growth Theory (Lý Thuyết Tăng Trưởng Nội Sinh). Từ lý thuyết này, các tác giả đã ứng dụng nó sang các lĩnh vực khác nhau như bất bình đẳng hay biến đổi khí hậu — điều mà độc giả có thể tìm thấy trong cuốn sách gần nhất mà Aghion viết chung với Céline Antonin và Simon Bunel, The Power of Creative Destruction (Sức Mạnh Của Phá Huỷ Sáng Tạo).
BÀI HỌC NÀO CHO VIỆT NAM
Rõ ràng, nếu độc giả đã đọc qua đoạn trên chắc sẽ không thể nào không liên tưởng đến trường hợp của nước Việt Nam — đất nước đã chính thức kết thúc chế độ xã hội chủ nghĩa trên thực tế với những hậu quả mà các nhà kinh tế phương Tây như Schumpeter đã nhìn thấy gần một thế kỷ trước. Sự duy trì mô hình xã hội chủ nghĩa chính nó đã kềm hãm sự sáng tạo của quốc gia, gây nên sự khủng hoảng kinh tế khi mà cung và cầu hàng hoá không đáp ứng lẫn nhau, và quan trọng nhất là không có sự sở hữu tư nhân khiến cho năng lực sản xuất không thể nào phát huy được.
Ngày nay, dù vẫn hô hào “định hướng xã hội chủ nghĩa”, lý tưởng xã hội chủ nghĩa thực chất đã được đem chôn. Tuy vậy, chế độ Việt Nam chưa thể gọi là một chế độ tư bản tự do. Nó là một sự thiết lập nửa vời chế độ tư bản cho nền kinh tế, trong khi giữ những đặc quyền xã hội chủ nghĩa về chính trị. Giới doanh nhân được khuyến khích hoạt động ở những lĩnh vực được sự cho phép của đảng Cộng sản; một số doanh nhân có quyền nhiều hơn những doanh nhân khác. Sự tồn tại của thị trường mở, nơi những doanh nhân được phép trao đổi những sản phẩm của mình đã đáp ứng nhu cầu cơ bản và giúp ổn định nền kinh tế. Nhưng sự thiếu vắng tự do đã ngăn sự phát triển và đón nhận những ý kiến mới. Sự thiếu ý kiến mới đến lượt nó khiến cho xã hội trì trệ và không thể sáng tạo. Việc thiếu sáng tạo cuối cùng khiến cho nền kinh tế không thể tăng trưởng bền vững về lâu dài. Cho đến gần đây, sự tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu đến từ đầu tư vào hạ tầng và xây dựng. Nhưng sự tăng trưởng này không thể giúp Việt Nam tiến bộ về công nghệ, vốn là nền tảng để tạo nên đà tăng trưởng trong lâu dài như các nghiên cứu đã đề cập ở trên.
Đến đây, có một câu hỏi lớn hơn đó là mô hình nào sẽ giúp Việt Nam phát triển. Trong cuốn sách Entrepreneurial State (Nhà Nước Khởi Nghiệp), Mariana Mazzucato, một kinh tế gia cánh tả, lập luận rằng nhà nước nên đóng vai trò là người dẫn dắt cho sự phát triển những công nghệ mũi nhọn, bởi vì đó là những lãnh vực chịu nhiều rủi ro, nhiều tốn kém, và các doanh nghiệp bình thường sẽ không muốn đầu tư. Nhưng sẽ có lợi nếu sau khi sự đầu tư của nhà nước tạo ra những kết quả ban đầu, giới doanh nhân được phép tiếp cận những công nghệ đột phá này và phát triển nó vì mục đích thương mại. Việc ứng dụng công nghệ vì mục tiêu thương mại sẽ giúp quốc gia dẫn đầu về công nghệ đột phá đó, giúp tăng năng suất lao động, tạo ra sự thịnh vượng chung, và trong nhiều trường hợp, công nghệ đó vừa được dùng cho dân sự lẫn quân sự. Mazzucato dẫn ra các ví dụ về các công nghệ được dùng trong iPhone, được sản xuất bởi Apple. Lý tưởng ban đầu của Apple là sản xuất ra những sản phẩm điện tử bằng cách ứng dụng các công nghệ tiên tiến có sẵn. Với lý tưởng đó, iPhone đã tích hợp các ứng dụng từ Internet, màn hình cảm ứng, GPS, các ứng dụng của bộ vi xử lý, cho tới công nghệ nhận diện giọng nói SIRI, vốn là các ứng dụng được phát triển bởi các cơ quan nghiên cứu của Bộ Quốc phòng của Hoa Kỳ. Hay gần đây hơn là câu chuyện NASA hợp tác với SpaceX của tỉ phú Elon Musk và Blue Origin của tỉ phú Jeff Bezos để phát triển ngành công nghệ không gian.
Nhưng để phát triển một “nhà nước khởi nghiệp” như lý tưởng của Mazzucato nó phải đi kèm với một thể chế minh bạch và một chính quyền có năng lực. Để bảo đảm cả hai điều này, nó phải dựa trên một nền dân chủ ổn định, khi người dân có thể chọn được những lãnh đạo có năng lực, hệ thống công chức dựa trên nhân tài, và các đảng đối lập luôn đóng vai trò kiểm soát chính phủ nhằm ngăn chặn lạm quyền, tham nhũng, và sự bất tài. Còn ngược lại, nếu không có những điều đó, việc chính phủ được quyền tự do đem tài sản đi đầu tư chỗ này chỗ kia nó chỉ là cơ hội để giới chức chính quyền kiếm chác. Các dự án phát triển tập đoàn của Việt Nam được tô vẽ là những quả đấm thép thực chất là các máy rút tiền của quan chức Đảng.
Tóm lại, sự thịnh vượng của Việt Nam về lâu dài không thể tránh khỏi con đường dân chủ hoá. Lịch sử nhân loại đã chỉ ra rằng tự do là nền tảng của thịnh vượng. Chẳng phải nhờ ở tự do hơn về kinh tế — bao gồm quyền sở hữu một số tài sản và quyền tự do trao đổi nó — mà xã hội Việt Nam đã trở nên thịnh vượng hơn sao? Nhưng sự tự do này hiện đang bị ngăn lại ở các quyền tự do về thể hiện suy nghĩ, quyền tự do thông tin, quyền tự do xuất bản, và quyền tự do trong chính trị, trong đó có các quyền bầu cử và ứng cử. Một xã hội không thể tiến lên được nếu người lãnh đạo nó không phải là những người khôn ngoan nhất. Một xã hội không thể lý trí và sáng suốt hơn nếu tri thức bị ngăn chặn bởi sự kiểm soát trong quyền xuất bản, báo chí, ngôn luận, và phản biện. Và một xã hội không thể sáng tạo hơn nếu nó không thể chấp nhận những ý kiến khác biệt.
Nguyễn Huy Vũ
13/10/2025