Kinh tế Việt Nam đang đứng
trước những khó khăn rất lớn. Không khó để thấy được các khó khăn chính phủ
đang phải đối mặt, đó là nợ xấu ngân hàng, các doanh nghiệp tư nhân phá sản
tăng, doanh nghiệp nhà nước kinh doanh kém hiệu quả, sức mua nội địa giảm, thất
nghiệp tăng nhanh… Đối với chính phủ, vấn đề quan tâm nóng nhất hiện nay là các
vấn đề về kinh tế: làm sao để vực dậy một nền kinh tế tăng trưởng ốm yếu.
Khi quan sát thấy
số doanh nghiệp khai báo phá sản hoặc ngừng hoạt động là hơn 70 ngàn doanh nghiệp
chỉ trong vòng 5 tháng, nhiều phân tích “lạc quan” cho rằng đây cuối cùng cũng chỉ
là sự “phá hủy sáng tạo” (creative destruction) nhằm tạo ra một thế hệ các công
ty có năng lực vượt trội. Nếu nhìn kỹ vào thực trạng của nền kinh tế, đó là một
sự lạc quan không căn cứ. Sự phá hủy sáng tạo thường đi kèm với nó là những tiến
bộ về công nghệ và tiến triển về năng suất lao động. Điều này không hề thấy
trong nền kinh tế Việt Nam
hiện nay, ít nhất là trong ngắn hạn. Có ý kiến cho rằng sau cuộc khủng hoảng này, các doanh
nghiệp sống sót sẽ cải tổ để hoạt động hiệu quả hơn. Điều này đúng chủ yếu với
các doanh nghiệp nhà nước chịu bao cấp, sau cuộc khủng hoảng này sẽ phải được cải
tổ và áp đặt một cơ chế hoạt động và giám sát mới. Tuy vậy, nếu những chính
sách kinh tế của chính phủ như hiện nay có thể giúp phục hồi nền kinh tế, Việt
Nam cũng chỉ quay lại với những cơ cấu kinh tế kiểu cũ. Có nhiều dự đoán cho thấy
nền kinh tế hiện nay đã tăng trưởng gần đến mức bão hòa khi dựa vào những nguồn
lực sẵn có về công nghệ, nguồn nhân lực rẻ và tài nguyên. Nếu không có một
chính sách đầu tư về nguồn nhân lực, có nhiều khả năng Việt Nam sẽ chỉ loay
hoay với mô hình kinh tế kiểu cũ và rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Câu hỏi đặt ra là bắt đầu những cải cách về chính sách
đầu tư nguồn nhân lực như thế nào. Đây là một câu hỏi liên quan đến giáo dục và
cơ chế. Dưới đây là một vài điểm chính mà chính sách giáo dục có thể thực hiện ngay
nhằm vực dậy nền khoa học và giáo dục.
- Tăng mức lương cơ bản
Chất lượng giảng viên đại học hiện nay rất kém. Với một
mức lương cơ bản dưới 5 triệu đồng hàng tháng, so với thời giá hiện đại, một giảng
viên khó mà sống nổi với nghề nếu họ không “chạy sô” đi dạy thêm trường khác.
Tuy vậy, không phải giảng viên nào cũng kiếm được sô để dạy thêm. Vào cơ hữu ở
đại học lúc này giống như có một chân ở đại học và người giảng viên dùng cái uy
tín để đi kiếm tiền thêm nơi khác. Động lực để nghiên cứu và cải thiện đóng góp
chương trình dạy và học không có. Ngoại trừ những giảng viên thâm niêm có vị
trí cao nhận được những lớp dạy với mức thù lao hậu hĩnh, mức thu nhập cho giảng
viên mới vào quá thấp.
Khi mức lương cơ bản trả cho một thạc sỹ để làm giảng
viên ở trường đại học chưa tới 5 triệu đồng / tháng, khó có thể giữ chân những
giảng viên ưu tú khi mức lương ở ngoài thị trường hấp dẫn hơn nhiều. Kết quả là
chỉ còn những giảng viên ở lại với mục đích kiếm một suất học bổng đi du học,
hoặc kiếm thêm sô đi dạy, hoặc cảm thấy ít có khả năng cạnh tranh ở ngoài và muốn
an phận. Những sinh viên ưu tú không muốn dấn thân vào con đường khoa học và giảng
dạy.
Tuy vậy, không phải là trường không có tiền để trả
lương giảng viên, mà thực chất là có những khoản tiền bị “thất thoát”. Lấy ví dụ,
mức lương thỉnh giảng mà một giảng viên được nhận cho một lớp đại học công lập
là khoảng 120 ngàn đồng / tiết. Mức lương trung bình theo tiết trả cho giảng
viên cơ hữu còn rẻ hơn nhiều nữa. Một lớp khoảng 100 sinh viên, vị chi một sinh
viên trả 1,2 ngàn đồng / tiết. Một môn học trung bình khoảng 50 tiết, mỗi sinh
viên trả khoảng 60 ngàn đồng tiền giảng cho một môn học. Nếu một năm học gồm
hai học kì có tổng cộng 15 môn, số tiền phải trả cho giảng viên thỉnh giảng là
900 ngàn đồng/ sinh viên. Nếu giả sử các chi phí về điện, nước, hành chính liên
quan bằng số tiền trả cho giảng viên thỉnh giảng thì tổng mức chi phí cho một
sinh viên trong 2 năm học chưa tới 2 triệu đồng/sinh viên. Với mức học phí mỗi
học kì trung bình 5 triệu đồng như hiện nay, nhà trường có thể “bỏ túi” ít nhất
khoảng 8 triệu đồng/sinh viên/năm học. Trên đây là con số với giả sử trả cho giảng
viên thỉnh giảng và ở trường công với mức học phí ưu đãi, nếu các trường chỉ
bao gồm giảng viên cơ hữu, mức chi trả lương cho giảng viên có thể thấp đi tới
một nữa, hoặc ở các trường dân lập, mức học phí tăng cao hơn, và do đó lợi nhuận
từ học phí cao hơn con số 8 triệu đồng / sinh viên / năm nhiều. Với một ngôi
trường có khoảng 10 nghìn sinh viên, mỗi năm trường thu nhập ít nhất 80 tỉ trước
thuế, chưa kể các khoản đóng góp, hợp tác, hỗ trợ khác. Chính vì lợi nhuận khổng
lồ đó, hàng loạt trường đại học đã được mở ra chỉ trong một khoản thời gian ngắn.
Việc quy định mức lương cơ bản cho các giảng viên trẻ,
ít nhất là bằng mức lương mà họ có thể kiếm được ở ngoài, là cần thiết. Việc
tăng mức lương cơ bản còn giúp tôn vinh vị trí giảng viên và tạo động lực thu
hút những sinh viên ưu tú tham gia vào hoạt động giáo dục.
Bên cạnh đó, các mức thưởng nên căn cứ vào thành tích
nghiên cứu khoa học của các giảng viên nhằm khích lệ tinh thần nghiên cứu khoa
học cũng như cung cấp thêm thu nhập cho giảng viên.
- Rà soát và cải tạo các chương trình đào tạo tiến sỹ
Các chương trình đào tạo tiến sỹ nhằm đào tạo ra đội
ngũ nghiên cứu khoa học cho đất nước, thay vì cấp các tấm bằng giúp cho việc
thăng tiến trong hành chính sự nghiệp. Trong một thời gian dài, việc buông lỏng
quản lý các chương trình này đã tạo ra những thế hệ tiến sỹ trình độ kém, không
có khả năng nghiên cứu khoa học. Những vị này sau khi nhận bằng lại quay ra nắm
giữ những vị trí lãnh đạo trọng trách trong giáo dục, đào tạo và nhiều lĩnh vực
khác đã khiến nền giáo dục và khoa học ngày càng đi xuống.
Việc rà soát lại các chương trình đào tạo tiến sỹ của
các trường đại học nhằm đảm bảo chỉ có những chương trình đào tạo có chất lượng
mới được thực hiện.
Trước mắt nên đặt mục tiêu các nghiên cứu sinh tiến sỹ
của Việt Nam khi bảo vệ luận văn phải có trình độ tương đương với các nước
trong khu vực. Để làm được điều này, Bộ Giáo Dục nên có quy định hội đồng bảo vệ
luận văn tiến sỹ có ít nhất một giám khảo đến từ một trường đại học có uy tín
nước ngoài.
Thực hiện quy định này rất khó khăn trong điều kiện hiện
nay, nhưng không phải là không thể. Thay vì mỗi trường có một chương trình đào
tạo tiến sỹ riêng, Bộ Giáo Dục nên đứng ra hỗ trợ các trường trong một khu vực
hợp tác tổ chức một trung tâm chung đào tạo các chương trình sau đại học, một
kiểu graduate school ở các nước phương Tây. Các giáo sư là các giảng viên ưu tú
từ các trường này. Các trung tâm này được cấp kinh phí nghiên cứu và khuyến
khích sự hợp tác với các giáo sư người Việt ở nước ngoài trong việc hỗ trợ và
hướng dẫn nghiên cứu sinh.
Bộ Giáo Dục nên ra một quy định là miễn phí chương
trình học nghiên cứu sinh và chỉ những nghiên cứu sinh bằng cách này hay cách
khác nhận được nguồn tài chính để theo học các chương trình tiến sỹ mới được nhập
học. Nên có một quỹ học bổng đài thọ cho các nghiên cứu sinh ưu tú chi phí sinh
hoạt bên cạnh quy định miễn học phí.
- Lọc chất lượng giảng viên
Tăng mức lương cơ bản chỉ giúp tạo một động lực hấp dẫn
những sinh viên ưu tú quan tâm và dấn thân vào khoa học và giáo dục. Nó là điều
kiện cần để ngành giáo dục và đào tạo có thể phát triển.
Ở Việt Nam, các trường đại học, chủ yếu là công lập,
còn đối diện với một thực tế là họ đã đủ chỉ tiêu giảng viên, không thể tuyển
thêm giảng viên trẻ, nhưng lực lượng giảng viên hiện có đa số rất thụ động
không muốn dấn thân nghiên cứu hay cải thiện việc giảng dạy. Việc tăng lương do
đó không thể giải quyết được vấn đề cải thiện chất lượng giáo dục trong trường
hợp này. Một giải pháp khác là lọc giảng viên thông qua chất lượng nghiên cứu
khoa học. Bộ Giáo Dục nên ra quy định là các giảng viên cơ hữu muốn duy trì vị
trí phải có ít nhất ba bài báo trên các tạp chí quốc tế hoặc đã bảo vệ luận văn
tiến sỹ ở một trường có uy tín ở nước ngoài. Việc đưa ra một quy định như vậy
nên có một lộ trình để thực hiện, thời gian hợp lý khoảng 5 năm kể từ ngày đưa
ra quy định. 5 năm cũng là một khoảng thời gian đủ để một nghiên cứu sinh hoàn
thành luận án tiến sỹ.
Sau 5 năm, nếu những giảng viên cơ hữu hiện thời không
hoàn thành quy định sẽ bị cắt hợp đồng.
Trong những trường hợp các vị trí giảng viên tại các
trường đại học công lập có được là do sự đút lót thay vì trình độ và khả năng
nghiên cứu khoa học, việc đưa ra một quy định lọc chất lượng giảng viên như vậy
cũng sẽ tự động giúp loại bỏ đi những giảng viên yếu kém.
- Sửa lại chính sách cấp học bổng đào tạo tiến sỹ
Các chương trình như 322, 911 chủ yếu cấp học bổng cho
cán bộ, giảng viên của các trường đại học nhằm hoàn thiện chương trình tiến sỹ ở
nước ngoài và về nước công tác.
Mục tiêu rất tốt đẹp, tuy nhiên các chương trình này
thực sự không hiệu quả.
Như đã phân tích ở trên, với chế độ đãi ngộ quá thấp
như hiện nay, lực lượng giảng viên trẻ cơ hữu còn giữ lại ở các trường đại học
không phải là lớp sinh viên ưu tú nhất, nếu không nói là chỉ hạng khá. Lớp sinh
viên ưu tú nhất không kham chịu nổi các khó khăn về tài chính đã ra ngoài làm
cho các công ty.
Chính sách cấp học bổng ưu đãi cho cán bộ công nhân
viên trong trường hợp này giống như là phần thưởng cho những đóng góp với mức
lương rẻ mạt của họ cho nền giáo dục. Những cán bộ, giảng viên này sau khi cố gắng
học xong các chương trình tiến sỹ bắt buộc quay về nước phục vụ trở lại cho
giáo dục. Với năng lực chỉ ở hạng khá, các nghiên cứu khoa học của họ nếu có
cũng chỉ ở mức bình bình. Thêm nữa, việc phải chấp nhận một mức lương thấp đồng
nghĩa với việc họ không có động lực đóng góp vào giáo dục và nghiên cứu khoa học.
Nếu có tham gia vào giáo dục, họ cũng sẽ cố gắng kiếm một vị trí tốt về mặt
hành chính để từ đó có thể thông qua các dự án hay dạy thêm để kiếm thêm thu nhập.
Ở đây, tấm bằng tiến sỹ chỉ còn có mục đích thăng tiến vị trí hành chính thay
vì nó là khởi đầu của một sự nghiệp khoa học.
Chính sách cấp học bổng của Bộ Giáo Dục do đó cần sửa
lại theo hướng khuyến khích động cơ của người học và đóng góp vào sự nghiệp
giáo dục. Trước tiên, chính sách cấp học bổng nên mở và xét chung cho cả các đối
tượng đang làm việc ở các khu vực ngoài giáo dục với điều kiện các đối tượng
này sau khi nhận học bổng sẽ phải làm việc cho một tổ chức giáo dục hay khoa học
của Việt Nam trong một thời gian như trong hợp đồng. Làm như vậy sẽ thu hút được
lớp sinh viên ưu tú nhất vốn đã ra ngoài làm việc.
Quá trình xét cấp học bổng nên được thực hiện một cách
công bằng dựa vào trình độ học vấn và khả năng theo đuổi chương trình tiến sỹ.
Tuy nhiên, nếu cả hai thí sinh đều như nhau, lẽ dĩ nhiên nên ưu tiên các cán bộ
giảng viên trẻ có kinh nghiệm nghiên cứu giảng dạy và đóng góp vào sự nghiệp
giáo dục.
Khi các nghiên cứu sinh đã hoàn tất quá trình học và
quay về nước, trường đại học nên cung cấp một cơ chế ưu đãi về lương bổng và chế
độ làm việc. Mức đãi ngộ này ít nhất phải tương đương với mức thu nhập mà họ có
thể kiếm được bên ngoài.
Có như vậy ngành giáo dục mới có thể thu hút được những
sinh viên ưu tú nhất của quốc gia sẵn lòng nghiên cứu khoa học và nhiệt tình
đóng góp vào sự nghiệp khoa học và giáo dục cho đất nước.
Bộ Giáo Dục nên dành hẳn một phần trên trang web của
mình liệt kê các loại học bổng, chỉ tiêu hàng năm, cách thức nộp đơn, điều kiện.
Nên cho phép nộp đơn online trực tiếp và công khai người nhận học bổng và người
nộp đơn trên mạng. Điều này cũng giúp giảm
đi những tiêu cực trong quá trình xét duyệt.
- Sắp xếp lại ban quản trị trường đại học
Cơ chế tự chủ trường đại học đã được bàn nhiều. Các mô
hình cũng có rất nhiều. Tuy vậy, nhìn chung ban quản trị các trường đại học bao
gồm một ủy ban với một người đứng đầu được tuyển chọn bởi chính một ủy ban từ
trường đại học hoặc một ủy ban giáo dục bên ngoài thường là từ Bộ Giáo Dục. Ban
quản trị của trường đại học chịu trách nhiệm bổ nhiệm nhân sự, giáo sư, quản trị
tài chính, được quyền tự thiết kế chương trình học và định hướng của ngôi trường.
Trong trường hợp của Việt Nam, một ủy ban bổ nhiệm ban
quản trị của một trường đại học nên do Bộ Giáo Dục chủ trì. Cơ chế tự chủ với một
ban quản trị có viễn kiến sẽ giúp cho trường đại học nhanh chóng chuyển đổi
phương thức dạy, học và nghiên cứu của mình.
- Đào tạo kỹ năng học suốt đời
Một trong những kỹ năng để tồn tại và phát triển đối với
bất kì một chuyên gia nào trong thời đại hiện nay là khả năng tự học suốt đời.
Tự biết mình là các nước nhỏ (về dân số, Đan Mạch: 5,5
triệu, Nauy: 5 triệu , Thụy Điển: 9,4 triệu, Phần Lan: 5,4 triệu) và dùng ngôn
ngữ đặc trưng, khả năng tồn tại và phát triển do đó chủ yếu dựa vào ngoại
thương với các nước khác và nền tri thức cũng phải phụ thuộc vào các nước lớn
hơn, các nước Bắc Âu (Đan Mạch, Nauy, Thụy Điển, Phần Lan) đã đưa “kỹ năng học
suốt đời” thành một chính sách giáo dục của mình.
Chính sách này nhấn mạnh việc đào tạo những sinh viên
có khả năng tự học, tự nắm bắt những kiến thức, kỹ thuật mới. Một mục tiêu ban
đầu quan trọng là trang bị cho sinh viên khả năng ngoại ngữ, chủ yếu là tiếng
Anh, nhằm nắm bắt trực tiếp kiến thức khoa học thế giới. Ngày nay, rất dễ dàng
bắt gặp một sinh viên nói tiếng Anh lưu loát như người bản địa ở các nước Bắc
Âu hơn tại bất cứ quốc gia nào không dùng tiếng Anh. Ngoài việc trang bị khả
năng Anh ngữ cho giáo viên, cải thiện chương trình học, các chương trình tivi bằng
tiếng Anh cũng giúp cho sinh viên làm quen với tiếng Anh từ rất sớm. Từ bậc cao
học trở lên, các chương trình chủ yếu bằng tiếng Anh.
May mắn là gần đây các chương trình truyền hình cáp của
Việt Nam bắt đầu có nhiều chương trình bằng tiếng Anh giúp thế hệ trẻ quen dần
với ngôn ngữ quốc tế này. Tuy vậy, có nhiều điều cần làm để thực hiện chính
sách “đào tạo kỹ năng học suốt đời” cho học sinh, sinh viên.
Một việc có thể thực hiện được là bắt buộc các chương
trình từ cao học trở lên thực hiện tại các trung tâm đào tạo sau đại học phải
được trực tiếp giảng dạy và nghiên cứu bằng tiếng Anh.
Bên cạnh đó, nâng cấp các chương trình đào tạo Anh ngữ
tại các trường đại học và bắt buộc sinh viên dùng các giáo trình tham khảo bằng
Anh ngữ khi thực hiện giảng dạy và nghiên cứu.
Các chương trình học hiện nay dành cho bậc đại học là
quá dài: trung bình 4 năm cho khối ngành kinh tế và 4.5 - 5 năm cho khối ngành
kỹ thuật. Nên rút lại còn 3 năm cho khối ngành kinh tế và 4 năm cho khối ngành
kỹ thuật, bên cạnh đó kèm thêm các chương trình tiếng Anh thực tế hơn.
“Kỹ năng học suốt đời” nên được trang bị cho trẻ từ
khi mới chào đời. Ở Phần Lan, khi mang thai, bố mẹ được tặng 3 cuốn sách. Một
cho bố, một cho mẹ và một cho đứa trẻ mới chào đời. Sách cho bố và mẹ hướng dẫn
cách chăm sóc con. Sách cho trẻ kích thích và giúp trẻ làm quen với việc đọc
sách ngay từ bé. Khả năng đọc sách, tìm tòi nghiên cứu được làm quen từ bé giúp
trẻ sớm phát triển khả năng sáng tạo và tự học khi lớn lên.
Bộ Giáo Dục cũng nên có chính sách định hướng và khuyến
khích việc đọc sách của trẻ em, cũng như khuyến khích việc xây dựng thêm các
thư viện trung tâm ở các huyện, xã.
***
Cải cách giáo dục là một quá trình lâu dài với rất nhiều
lĩnh vực đòi hỏi phải cải tổ. Trên đây chỉ là vài ý, và danh sách trên chắc chắn
không hoàn hảo. Có nhiều vấn đề cần phải bàn thêm về giáo dục tiểu học, trung học,...
Những ý kiến trên mục tiêu chỉ nhắm chủ yếu đến đào tạo bậc đại học và sau đại
học, vì đây là giai đoạn quan trọng đào tạo những kĩ năng cần thiết cho các
chuyên gia đầu ngành, giảng viên của các trường đại học. Đây là lực lượng có
tác động rất lớn đến sự thay đổi của giáo dục và hình thành nên bộ mặt khoa học
công nghệ của một quốc gia. Sự thay đổi về chất và lượng của lực lượng này sẽ ảnh
hưởng sâu sắc lên cách thực hiện chính sách giáo dục. Có thể nói cách thay đổi
như vậy là cách thay đổi từ trên xuống.
Sự phát triển của một quốc gia phải được nâng đỡ bởi
chính nội lực của nó. Nội lực ở đây là trình độ giáo dục, khoa học và công nghệ.
Không có một quốc gia phát triển nào mà không có một hệ thống giáo dục khoa học
tiên tiến. Cũng như, không có một quốc gia nào có một hệ thống giáo dục khoa học
tiên tiến mà không phát triển.
Những cố gắng cải thiện chính sách kinh tế trong ngắn
hạn nên được đi kèm với những hỗ trợ và cải cách về giáo dục mạnh mẽ hơn. Có
như vậy nền kinh tế mới có những bước nhảy vọt lên một ví trí cao hơn.
Lẽ dĩ nhiên, khi thực hiện những cải cách như trên sẽ
gặp phải rất nhiều chống đối từ những người đang hưởng lợi từ việc duy trì tình
trạng hiện có của hệ thống. Đó là những giảng viên không muốn nỗ lực nghiên cứu
khoa học, những nhà quản trị đại học trình độ kém, và những cá nhân hưởng lợi
khác. Việc thực hiện những cải cách như vậy do đó phải phát xuất từ một quyết
tâm chính trị. Ở đây, vai trò của các chính trị gia quyết định.
Nguyễn Huy Vũ
21/06/2012